Quân phiệt là gì? Thời kỳ quân phiệt Trung Quốc diễn ra trong khoảng thời gian nào? Nếu bạn đang muốn tìm hiểu về quân phiệt Trung Quốc và một số thông tin liên quan thú vị khác thì hãy tham khảo bài viết dưới đây nhé!
Nội dung bài viết
Quân phiệt là gì?
Quân phiệt là một thuật ngữ được dùng để chỉ những nhà lãnh đạo quân sự có ảnh hưởng và quyền lực lớn tại một khu vực địa phương, thường không tuân theo chính phủ trung ương hoặc có thể thách thức chính phủ trung ương.
Quân phiệt thường có một lực lượng quân đội riêng, được trang bị và tài trợ bởi các nguồn lực địa phương hoặc nước ngoài, và có thể tham gia vào các cuộc chiến tranh nội bộ hoặc xung đột biên giới với các quân phiệt khác. Quân phiệt cũng có thể có những chính sách và chủ trương riêng, không nhất thiết phù hợp với lợi ích quốc gia hoặc dân tộc. Quân phiệt có những đặc điểm nổi bật như là:
- Người đứng đầu thường là các tướng lĩnh hoặc sĩ quan cao cấp trong quân đội, có uy tín và năng lực chỉ huy.
- Quân phiệt thường kiểm soát một khu vực địa lý nhất định, có thể là một tỉnh, một thành phố, một vùng hay một miền.
- Quân phiệt cũng sẽ có một hệ thống chính trị và hành chính riêng, đôi khi bao gồm cả các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Nguồn thu nhập của quân phiệt có thể là từ thuế, thuộc địa, buôn bán, hối lộ, tiền ủng hộ hoặc tiền viện trợ.
- Mối quan hệ của quân phiệt với chính phủ trung ương rất phức tạp.
- Quân phiệt thường có một mối liên kết với một phe phái hay tôn giáo nào đó.
Điểm qua về thời kỳ quân phiệt Trung Quốc
Thời kỳ quân phiệt Trung Quốc là một giai đoạn trong lịch sử Trung Hoa Dân quốc khi quyền kiểm soát đất nước bị phân chia. Trong thời kỳ này, quyền lực Trung Quốc bị tranh chấp giữa các bè cánh quân sự cũ thuộc Quân đội Bắc Dương và các phe phái địa phương khác. Thời kỳ quân phiệt của Trung Quốc được bắt đầu từ năm 1916 và kết thúc vào năm 1928.
Thời điểm bắt đầu
Theo ghi chép lịch sử, thời kỳ quân phiệt Trung Quốc bắt đầu từ năm 1916 sau cái chết của nhà độc tài Viên Thế Khải. Cái chết của Viên Thế Khải tạo ra một khoảng trống quyền lực, sự tranh chấp bắt đầu lan rộng khắp Trung Quốc đại lục gồm các tỉnh Tứ Xuyên, Thanh Hải, Sơn Tây, Quảng Tây, Ninh Hạ, Vân Nam, Quảng Đông, Cam Túc và Tân Cương.
Lúc này, chính phủ Quốc dân đảng theo chủ nghĩa dân tộc của Tôn Dật Tiên với trụ sở tại Quảng Châu đã bắt đầu đấu tranh với Chính phủ Bắc Dương của Viên Thế Khải để trở thành chính phủ Trung Quốc chính danh. Các liên hiệp quân phiệt cũng từ đó mà ra đời.
Đặc trưng
Đặc trưng của thời kỳ quân phiệt Trung Quốc chính là những cuộc nội chiến liên miên giữa nhiều phe phái khác nhau. Trận chiến lớn nhất trong số đó phải kể đến là Đại chiến Trung Nguyên với hơn một triệu binh lính tham chiến. Thời kỳ quân phiệt Trung Quốc kết thúc vào năm 1928, khi Quốc dân đảng dưới quyền Tưởng Giới Thạch đã chính thức thống nhất Trung Quốc thông qua Chiến dịch Bắc phạt, đánh dấu sự khởi đầu của Thập niên Nam Kinh.
Tuy nhiên, một vài quân phiệt vẫn tiếp tục duy trì ảnh hưởng sự ảnh hưởng của mình và cát cứ tại nhiều địa phương trong suốt những năm 1930 đến 1940. Có thể nói, quân phiệt chống đối chính phủ trung ương lúc đó trở thành vấn đề khó giải quyết đối với Chính phủ Quốc dân đảng trong thời kỳ đó,.
Bè cánh
Dưới đây là các bè cánh xuất hiện trong thời kỳ quân phiệt Trung Quốc.
Vùng miền |
Miền Bắc |
Miền Nam |
Bè cánh |
Hoãn hệ |
Quốc dân đảng |
Trực hệ |
Điền hệ |
|
Phụng hệ |
Trực hệ |
|
Tấn hệ |
Quế hệ |
|
Tây Bắc quân |
Việt hệ |
|
Mã gia quân |
Kiềm quân |
|
Tân Cương phái |
Xuyên quân |
|
Tương hệ |
Các bè cánh quân phiệt miền Bắc là những nhóm tướng quân chiếm hữu các tỉnh phía Bắc của Trung Quốc, bao gồm cả Bắc Kinh và Thiên Tân. Các bè cánh này thường xung đột với nhau vì tranh giành quyền lực và lợi ích, nhưng cũng hợp tác để chống lại các bè cánh miền Nam và các cuộc nổi dậy của nhân dân. Các bè cánh quân phiệt miền Bắc thường được hậu thuẫn bởi các nước ngoại bang, đặc biệt là Nhật Bản, để có thể duy trì ảnh hưởng của họ tại Trung Quốc.
Trong khi đó bè cánh quân phiệt miền Nam là những nhóm tướng quân chiếm hữu các tỉnh phía Nam của Trung Quốc, bao gồm cả Quảng Châu và Vũ Hán. Các bè cánh này thường ủng hộ chủ nghĩa dân chủ và phản đối sự can thiệp của các nước ngoại bang vào Trung Quốc. Các bè cánh miền Nam cũng tham gia vào phong trào Quốc dân Cách mạng do Quốc dân Đảng lãnh đạo với mục tiêu là thống nhất Trung Quốc và xóa bỏ chế độ quân phiệt.
Chế độ chính trị
Chế độ chính trị trong thời kỳ quân phiệt Trung Quốc là một hình thức liên bang lỏng lẻo, trong đó các tướng quân có quyền tự chủ về nội bộ và chỉ tuân theo một số điều khoản của chính phủ trung ương.
Chính phủ trung ương được thành lập theo Hiến pháp Lục thập tứ niên (1912), nhưng không có uy tín và sức mạnh để kiểm soát các tướng quân. Do đó các tướng quân bè cánh quân phiệt thường xuyên chiến đấu với nhau để mở rộng ảnh hưởng hoặc bảo vệ lãnh thổ, gây ra nhiều cuộc nội chiến và khủng hoảng chính trị. Bên cạnh đó những bè cánh này thường liên kết với các thế lực ngoại bang, nhất là Nhật Bản, để nhận được sự hỗ trợ về vũ khí, tiền bạc và chính sách hỗ trợ khác.
Tài chính
Tài chính của quân phiệt Trung Quốc chủ yếu đến từ hai nguồn: thuế và vay nợ. Các tướng quân thường áp đặt các loại thuế cao cho người dân và doanh nghiệp trong lãnh thổ của mình, như thuế đất, thuế thu nhập, thuế tiêu thụ, thuế hải quan và thuế cửa khẩu…
Các tướng quân cũng thường vay nợ từ các ngân hàng nước ngoài hoặc các nhà tài trợ ngoại bang, như Nhật Bản, Anh, Pháp và Mỹ, để duy trì chi tiêu cho quân đội và chính quyền. Tuy nhiên, việc vay nợ này đã làm tăng nợ công của Trung Quốc và làm suy yếu chủ quyền và an ninh quốc gia.
Một số tướng quân nổi tiếng trong thời kỳ quân phiệt Trung Quốc
Một số tiêu chí có thể được dùng để xét đến sự nổi tiếng của một tướng quân là: quy mô lãnh thổ kiểm soát, thành tích quân sự, vai trò chính trị, tầm ảnh hưởng… Dưới đây là một số tướng quân có thể được coi là nổi tiếng nhất trong thời kỳ quân phiệt Trung Quốc mà bạn có thể tham khảo:
- Đoàn Kỳ Thụy: Người này là lãnh tụ của Hoản hệ, thuộc nhóm quân phiệt mạnh nhất miền Bắc trong thời kỳ này. Đoàn Kỳ Thụy kiểm soát hầu hết các tỉnh phía Đông Bắc và Bắc Trung Bộ, đồng thời từng đảm nhận chức vụ Thủ tướng và Tổng tư lệnh quân đội của chính phủ Bắc Dương. Ông cũng là người đã phát động Chiến tranh Trực – Hoản, cuộc chiến lớn nhất trong thời kỳ này để đối đầu với Phùng Quốc Chương.
- Phùng Quốc Chương: Phùng Quốc Chương là tướng quân của Trực hệ, nhóm quân phiệt thứ hai về sức mạnh sau Hoản hệ. Bè cánh của Phùng Quốc Chương chiếm các tỉnh phía Bắc và Tây Bắc, ông cũng từng lên chức Tổng thống của chính phủ Bắc Dương. Phùng Quốc Chương là người đã thành lập Liên minh Quốc dân Quân để chống lại Đoàn Kỳ Thụy trong Chiến tranh Trực – Hoản.
- Trương Học Lương: Đây là tướng quân của Phụng hệ thuộc nhóm quân phiệt kiểm soát vùng Đông Bắc (Mãn Châu Lý). Người này có mối quan hệ phức tạp với Nhật Bản, vừa nhận được sự hỗ trợ về vũ khí và tài chính từ Nhật Bản, vừa phải đối mặt với sự xâm lược của Nhật Bản. Trương Học Lương cũng là người đã ký Hiệp ước Thẩm Dương với Nhật Bản, gây ra sự phẫn nộ của dư luận Trung Quốc.
- Tôn Truyền Phương: Ông là một trong những tướng quân miền Nam, kiểm soát hầu hết vùng hạ lưu Trường Giang. Ông có biệt danh là “Hổ Hà Nam”, và được coi là một trong những đối thủ khó nhằn nhất của Quốc dân Đảng trong cuộc Chiến dịch Bắc phạt.
- Phùng Ngọc Tường: Nhóm quân phiệt của Phùng Ngọc Tường kiểm soát các tỉnh Hà Nam và Hồ Nam. Người này còn được biết đến với biệt danh “Tướng Cơ đốc”, và là người đã thúc đẩy Phong trào Giám lý cùng với chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc.
Với những thông tin về thời kỳ quân phiệt Trung Quốc nói trên, hy vọng bạn đã có thể nắm được thời gian và đặc trưng của thời kỳ này. Có thể nói đây là thời kỳ đen tối và khó khăn mà Trung Quốc đã phải trải qua.